Thứ Năm, 17 tháng 7, 2008

NGHỀ NGHIỆP Ở XỨ TA

Cuộc sống thay đổi có những nghề truyền thống trong dân gian được lưu truyền sáng tạo và người đời gìn giữ mãi. Như nghề mộc, nghề gốm, nghề sơn mài, nghề thợ may, nghề làm bún, nghề làm giò chả, thậm chí cả nghề cô đầu, nghề tẩm quất…Có những nghề mai một dần theo năm tháng như nghề vẽ truyền thần, nghề làm guốc mộc, nghề làm mắm rươi, mắm cáy ( vì rươi, cáy ngày dần tuyệt chủng)… có những nghề phát sinh theo từng thời kỳ và cũng chết khi giai đoạn lịch sử đó chấm hết như nghề nhuộm răng đen đầu thế kỷ, nghề chạy xe tay, nghề bơm bút bi, nghề hàn dép nhựa, nghề khắc bút máy, nghề làm và sửa chữa dép cao su …
Thời bao cấp đói kém ở miền bắc phát sinh ra cái nghề bơm bút bi, nghề hàn dép nhựa. Ngày ấy ra đường thấy tay nào túi ngực nhòe nhoẹt xanh đỏ là biết ngay tay ấy không giáo sư, trí thức thì chí ít cũng gánh sinh viên, học sinh. Bút bi có thể bơm dùng nhiều lần cho tới khi hở “bạc” mới thôi, bút đã hở “bạc” rồi thì chỉ có vứt, vì nếu không túi thầy, túi cô … có tài thánh cũng không thể giặt sạch được loại mực tự chế của cái anh bút bi này. Đầu những năm 1960 tôi có ông anh đem từ Đức về cái bút bi nhìn thấy “khiếp”, mấy chú trong khu tập thể có hiểu biết còn gọi nó là bút “nguyên tử”.
Nghề hàn dép nhựa, đôi dép “khéo đi” có thể xài được vài năm, đứt quai hả?hàn! lại tốt Mòn đế hả?hàn! kéo lê thêm được dăm bảy tháng. Mà đồ nghề tác nghiệp của mấy bác thợ này có quái gì đâu ngoài lưỡi dao cùn, cái bếp dầu và dăm ba miếng nhựa phế thải.Có những đôi dép nguyên thủy màu trắng như dép tiền phong ( của này hiếm dân sổ A, sổ B mới có tiêu chuẩn, ngoài ra phải lùng ngoài chợ đen ) khi thanh lý bán ve chai thì hình hài của nó chỗ nâu, chỗ vàng vì được hàn bằng nhiều nguyên liệu khác nhau trông vui mắt. Bà ve chai dứt khoát đánh giá đôi dép cũ tôi bán là hàng nhựa tái sinh nên đòi giảm giá còn tôi thì ngược lại vì đôi dép của tôi nguyên thủy là nhựa tiền phong cơ mà. Nhưng rồi lý lẽ thuộc về kẻ nắm “khìn” trong túi nên tôi đành hập hực cầm đôi ba hào tiền lẻ bà ve chai hào phóng dúi cho. Dép làm bằng nhựa tái sinh mùa đông cứng như guốc gỗ đi thì kêu lộp cà lộp cộp còn quai thì cứng quèo cứa vào chân như lưỡi dao cùn của lão thợ cạo ngoài phố đau điếng nhưng vẫn thấy oai vì dù sao cũng thuộc đẳng cấp khác, có dép nhựa đi.
Nghề sửa và bán dép cao su, tôi dám chắc không 100% thì cũng 99% trong túi quần sau của cánh lính ta bao giờ cũng có một cái rút dép làm bằng sắt lấy từ đai kiện hàng. Vì thời anh em ta đa số chỉ thuần chủng đôi dép cao su bạn đường. Tôi nhớ có một lần học ở ĐHKTQS trốn về HN nhân chiều thứ bảy, lính binh nhì, binh nhất thì làm quái gì có tiền nên bọn tôi phải “lụi” vé nhảy tầu. Thường tôi hay “tiếp đất” ở ga đầu cầu cho chắc ăn vì đoạn này mới qua cầu Long Biên nên tàu chạy chậm. Lần ấy không hiểu sao qua cầu rồi mà tốc độ tàu chạy lại cao hơn thường lệ. Kệ! tôi quyết định nhảy. Hai mắt dáo giác quan sát phía trước. Tôi buông người chạy đà theo hướng tàu chạy, nhưng tốc độ tàu và đà chạy của tôi không đồng bộ thế là chân nọ đá chân kia tôi ngã quay đơ, lăn long lóc như cái bao tải hàng trên sân ga vắng ( tàu không đỗ ga này ) trong ánh sáng vàng vàng èo uột của một vài ngọn đèn trên sân ga Long Biên trong một chiều đông chạng vạng. Nằm cong queo dưới đất định thần nghe ngóng “cơ quan đoàn thể” xem có chỗ nào bị “sứt mẻ” gì không, bỗng tôi thấy tiếng bước chân thình thịch chạy về phía tôi. Bỏ mẹ rồi! nhảy tàu trốn vé chứng cứ pháp lý lù lù ra đấy có mà cãi “giời”, bị phạt là may không khéo còn bị làm mồi cho lũ muỗi đói ở “bót” Hàng Đậu đêm nay cũng nên, tôi nghĩ trong đầu và nằm im giả như bị thương nặng lắm hy vọng nỗi thương cảm lay động trái tim tay nhân viên kiểm vé nào đó đang chạy lại phía tôi kia. Khi tới sát bên tôi hắn cúi xuống nhìn rồi như chưa thật tin vào mắt mình hắn còn đá đá vào mông tôi mấy cái đau điếng như kiểm tra xem nó là cái giống gì rồi hắn vội vã quay đi miệng làu bàu chửi: “ Mẹ nó chứ!, không khéo bao hàng trốn thuế của mình thuế vụ nó thu bố nó rồi cũng nên, thằng cha bộ đội chết tiệt làm mình tưởng bao đồ của bạn hàng vứt xuống mất hết cả thời gian”.
Nhẹ cả người nhưng vừa bực, vừa tức, vừa cám cảnh cho cái tình người thời “đói kém”. Cũng may người ngợm chẳng hề hấn gì chỉ toạc tý đầu gối quần tôi lồm cồm vừa phủi quần áo vừa đứng dậy.
Quái! Lại văng mẹ nó đi đâu mất toi chiếc dép cao su tầu vừa được phát quân trang đợt vừa rồi? Đôi dép mà tôi nâng niu gìn giữ còn hơn giữ “mả tổ”. Ở mũi hai chiếc dép tôi đã cẩn thận dùng dao khoét một miếng để đánh dấu cho khỏi lộn với dép của những thằng khác trong phòng. Tiếc ngẩn ngơ, tôi lần mò tìm hết đoạn đường ke xem có rơi đâu không, gần hai chục phút công toi. Thế là tôi thất thểu chân dép, chân không đi bộ xuống phía đầu cầu. Đang đi tự dưng tôi thấy cồm cộm nơi bắp vế, dừng lại kéo ống quần lên xem sao, thật kinh ngạc, các bác có biết gì không? tôi thấy chiếc dép cao su mà tôi tưởng đã mất chả hiểu sao lại tuột lên tới tận bắp vế nó ôm chặt lấy bắp chân tôi như con Koala (gấu túi) ở xứ Úc châu ôm chặt lấy thân cây bạch đàn. Mừng như vớ được vàng, chả hiểu lý cú ra làm sao? Mãi sau này tôi mới biết nguyên do. Số là tôi bị chứng phong thấp, hay đổ mồ hôi chân nên giầy dép tôi đi lúc nào cũng ướt nhẹp nhất là vào mùa hanh khô cộng với tính lười cố hữu, mùa đông có khi cả tuần tôi mới rửa chân một lần mồ hôi cộng với bụi ghét ở chân tạo ra một dung dịch nhờn nhờn, dinh dính và cực trơn, tôi thề! nó còn trơn hơn cả loại dầu nhớt mà hãng BP hay quảng cáo trên tivi. Khi ngã bị vướng thế quái nào mà chiếc dép lại trượt lên tới tận “trển” chả trách tôi không phát hiện ra. Nói các bác đừng cười đi dép còn đỡ chứ tôi mà đi giầy ngủ trưa tháo chân ra trong phòng chật nhét tới tám thằng thì cứ gọi là cóc chết phải lạy bằng cụ, bọn bạn tôi nó chửi tôi như hát hay vì cái tội chân thối tra tấn lỗ mũi chúng nó.
Dông dài một tí với các bác về một kỷ niệm của tôi với đôi dép cao su vì nó liên quan tới nghề dép.
Khi còn bé trên đường đi học về tôi có thể lang thang nhiều giờ liền bên các giá vẽ truyền thần trên con phố bên cạnh nhà hát “nhớn” ( Hải Phòng ) ( Chắc bác Phúc Chiến còn lạ quái gì mấy cửa hiệu này) để ngắm tài của các bác thợ. Tranh truyền thần chủ yếu khách hàng muốn giữ lại những hình ảnh của các bậc sinh thành trưởng lão đã quá cố để trên bàn thờ khi giỗ chạp cho con cháu biết hình hài khi nhớ về ông bà tổ tiên mình. hoặc một vài bức hình đẹp quá vãng của một thời trai trẻ muốn phóng to để nơi phòng khách. Ngày ấy không có phương tiện gì, tất thẩy phải nhờ đến truyền thần. Truyền thần có cái hay rất bền theo năm tháng và tha hồ “sáng tạo”, ở xứ ta độ ẩm lớn ảnh xử lý bằng hóa chất sau thời gian sẽ bị mốc ẩm băng hoại nhưng truyền thần thì không. Thời Pháp thỉnh thoảng có những bức ảnh lụa trên dưới bảy mươi năm mà nước ảnh vẫn sáng, lạ thật! không lẽ công nghệ ngày xưa tốt hơn?
Bố vợ tôi ngày còn họcThăng Long trọ hoc trên căn ghác xép cùng với họa sỹ Tô Ngọc Vân, ông già vợ học được nghề vẽ của danh họa này. Vào những năm cuối thập kỷ sáu mươi đầu bảy mươi cụ mở tiệm chuyên vẽ truyền thần, nhờ có năng khiếu, lại có chút ít cơ bản về nghề cộng với những thúc bách của đời sống tiệm của ông trở nên nổi tiếng.
Có một chuyện thế này, có tay công an trung úy trưởng phường ( Thời ấy là trưởng khu quân hàm trung úy công an là hiếm lắm ) tình cờ đi qua cửa hiệu của bố vợ tôi thấy hay hay hắn đứng lại xem và hình như buột phát từ đâu đó trong sâu thẳm trái tim, hắn bỗng nhớ tới người cha quá cố của mình khi mà ngày giỗ của cụ gần kề thế là đường đột một ý nghĩ lóe lên hắn đề nghị bố vợ tôi vẽ cho hắn một bức chân dung người cha của mình, ông già vợ tôi vui vẻ nhận lời với một đề nghị:
- Ông cho xin một tấm hình của cụ nhà để làm mẫu.
Một thoáng băn khoăn tay công an đáp:
- Nói thật với cụ đến tôi đây cái ảnh lý lịch trong hồ sơ, cơ quan cũng phải thuê thợ về chụp cho rồi trích quỹ thanh toán huống hồ ông bố tôi mất đã lâu khi sinh thời lại nghèo kiết xác bốn đời rau cám thì làm gì có tiền mà dám chụp ảnh, giả sử có tiền đi chăng nữa thì cũng chả ai nhiêu khê lội bộ mấy chục cây số từ quê ra tình để chụp lấy cái hình rồi về có khác nào chuyện tấm cám ngày xưa hơn nữa chuyện này mà vỡ lở ra dân trong làng họ biết, họ chửi cho cái thói học đòi thì cứ gọi là mọt kiếp.
Rồi hắn tiếp:
- Cụ cứ vẽ cho tôi một ông già khoảng sáu bảy mươi là được.
- Thế anh có nét gì giống cụ nhà không? Bố vợ tôi hỏi.
- Không quan trọng cụ ạ, vì trong làng, trong họ nhà tôi bây giờ cũng chả còn có ai tường tận hình hài bố tôi, người thì nói là ông cụ cao to có tí râu ở cằm, người thì “đặc tả” cụ nhà ít tóc lắm, mặt mũi lại nhẵn nhụi, kẻ thì lại bảo cụ tôi có mái tóc quăn quăn, giông giống cánh tây đen đi càn vào làng năm loạn … Chả biết đâu mà lần thôi cụ cứ vẽ như yêu cầu của tôi.
Sự việc đẩy ông già vợ tôi vào thế kẹt. Một quan chức to trong ngành cảnh sát, chối từ thì có mà đem vạ vào thân mà vẽ không đúng ý, phật lòng hắn thì cũng toi. Rồi ông già tôi lẩm bẩm “chó giống cha, gà giống mẹ” còn người thì … phải có nét gì đó của cả mẹ, cả cha chứ rồi ông già tôi quyết định rất nhanh cụ tế nhị quan sát hắn thật kỹ như cố nhớ những nét đặc trưng lạnh lùng mang tính nghề nghiệp trên khuôn mặt khắc khổ của tay công an rồi cụ nói:
- Thôi được tôi sẽ cố xem sao, anh có thể về hai ngày nữa mời anh tới. Tay công an giơ bàn tay cứng như sắt chụp lấy bàn tay cả đời chỉ quen với cây bút, cây cọ của ông cụ nhà tôi với lời cảm ơn.
Hai ngày sau đúng hẹn mới tám giờ sáng đã thấy tay công an thập thò cửa tiệm, chưa có khách bố vợ tôi pha ấm trà ngon và với tay lấy bó thuốc cuộn ra mời.
- Cảm ơn cụ, tôi có thuốc đây rồi.
Nói đoạn hắn rút trong túi ra bao Tam Đảo mới bóc chìa về phía chủ nhà. Hút hết điếu thuốc và chiêu xong tuần trà ông già tôi mới chậm rãi đi vào trong nhà khi ra trên tay cụ là một tấm hình khổ 20X25 được bọc giấy bóng cẩn thận. Tay công an giơ cả hai tay ra đón như giật lấy tấm hình từ ông già tôi và vội vàng mở tấm giấy bóng. Hắn nghiêng đầu quan sát, đưa ra xa, rồi lại kéo vào gần ngắm nghía tấm ảnh một lúc lâu rồi bỗng hắn vỗ đùi đen đét và la toáng lên.
- Đẹp! đẹp quá.
- Giống! giống thật.
- Mẹ tiên sư nó chứ, đứa nào giám mở mồm ra bảo đây không phải là bố ông, ông mà tức lên chỉ nhoằng một chữ ký thằng đó cứ gọi là đi tù mọt xác.
Cơn hưng phấn đang độ cao trào bỗng dưng như quả bóng xì hơi hắn chùng xuống im lặng đến thẫn thờ. Nhìn thái độ của tay công an ông già tôi băn khoăn, chờ một tí ông già tôi mới ngập ngừng hỏi.
- Có điều gì không ổn cần sửa lại ông cứ cho một “nhời”.
- Không chê vào đâu được cụ ạ, cảm ơn cụ, tuyệt lắm! nhưng có điều tôi thấy không ổn là ở chỗ bộ comple , cái cavat đỏ, chiếc mũ phớt nỉ đen, chiếc ghế xalon tàu chạm trổ rồng phượng lại còn thêm bên cạch lọ hoa huệ tây nữa chứ ( Có lẽ bức họa “ thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân ám ảnh bố tôi chăng?) nó Âu Mỹ quá, thế này là ra anh tư sản mất rồi, trật lập trường quan điểm giai cấp thời buổi này là gay lắm không khéo là bỏ bố, mất chức về vườn như chơi. Nói dại chẳng may có thằng nào trong ban tổ chức cán bộ công an tỉnh nó mà nhìn thấy tấm hình này của cụ tôi âm thầm cho trinh sát về tận làng thẩm tra lại lý lịch thì bỏ mẹ, rồi nó vu toáng lên là tôi khai man thành phần thì có phải là chết không, cái chức của tôi bao nhiêu thằng đang nhăm nhe dòm ngó chúng nó “ma mưu, quỷ kế” lắm, sểnh một tí là toi liền. Cụ làm ơn “bỏ” hộ ông già tôi cái mũ phớt, “cởi” bớt bộ comple cùng cái cavat đỏ … cụ cứ cho ông già tôi mặc áo thâm, quần chùng khăn xếp ngồi chõng tre bên cạnh có cái điếu bát thuốc lào là chuẩn, cho nó đúng với gốc tích bần cố nông cố hữu của họ hàng nhà tôi.
Ngày hôm sau quay lại, lần này thì hắn thực sự cảm phục về tài nghệ và chữ tín trong nghề nghiệp của bố vợ tôi, hai tay hắn kính cẩn đón nhận tấm hình sau khi xem lại thật kỹ. Bố vợ tôi thấy hắn người bỗng nhiên cứng đơ ra, miệng ngáp ngáp liên tục như người ốm bị thiếu oxi. Có phải không? Không phải! vì nước da hắn trông vẫn đỏ đắn lắm Hay là hắn cố nuốt những cảm xúc đang dâng trào vào tận đâu đó trong cõi sâu tâm hồn, hắn kiên quyết chế ngự tình cảm không để nó ào ạt tuôn trào mãnh liệt như hôm trước nữa chăng? Ý nghĩ đó cứ vẩn vơ trong đầu bố vợ tôi.
- Đội ơn cụ! Xin được cảm ơn cụ, cho tôi xin được gửi tiền công
Bố vợ tôi không nói im lặng đến máy giây cuối cùng cụ mới chậm rãi:
- Nhìn cảm xúc của anh khi thấy anh ngắm tấm hình người “cha” với vẻ mãn nguyện và đầy lòng kính trọng thực sự tôi thấy mình là người hạnh phúc chả kém gì anh, chỉ ngần ấy thôi là đủ, đó chính là tiền công mà anh đã trả cho tôi rồi, tâm và nghề giới chúng tôi là vậy, thân tặng anh tấm hình và nhân đây cho tôi xin được nhờ anh thắp nén nhang nhân ngày giỗ sắp tới của cụ, chào anh, thôi anh về đi kẻo nhỡ việc nhà nước.
- Ấy chết! Cụ định hối lộ nhà chức trách à? Không được! tôi có thể ngay bây giờ ký lệnh bắt giam cụ vì hành vi trên, cụ phải nhận tiền! nếu không …!!!
Nói đoạn tay công an rút ví để lại trên bàn bố vợ tôi bốn tờ “cần cẩu” màu xanh - số tiền đó bắng 1/3 tháng lương trung úy của hắn rồi hai tay ôm chặt lấy tấm hình tất tả hướng về phía trụ sở công an khu như chỉ sợ bố tôi đổi ý đòi lại.

Có nhiều chuyện, tôi được nghe từ ông, bà, bố, mẹ … có những chuyện của chính tôi liên can tới những nghề ở xứ ta mà tôi đã kể ở trên vì đã quá dài xin khất các bác vào một dịp khác. Kính chào.

“Tếu táo” những ngày “khô hạn” giữa mùa mưa SG - 2008

Đào Duy

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2008

CẢM NHẬN

Cuộc sống hôm nay cởi mở hơn nhưng cũng phúc tạp đa chiều hơn. Anh em chúng ta có hơn nghìn người thì cũng có nghìn lối nghĩ về nó, thế nào là chuẩn mực cho cuộc sống hôm nay chắc khó có câu trả lời…

Có một người bạn hỏi tôi : “ Thằng A lên tướng, mày có tự hào không ?”. Tôi đã trả lời là không, nhưng tôi mừng cho nó, thì người bạn kia cho tôi là cố chấp hẹp hòi…Thật buồn khi tôi không thể chiều theo ý nghĩ khác và càng không thể tranh luận để giải thoát cho mình cái "mũ" vừa được ban tặng. Nhân chuyện này tôi xin kể về một trong những người bạn Trỗi của tôi mà tôi thấy…

***

Hắn trên tôi một khóa, ngày ở trường Trỗi tôi biết, vì Hắn ngổ ngáo có tiếng. Cuối 1975 từ chiến trường ra ôn thi đại học, tôi lại gặp Hắn. Cùng là lính Trỗi nên tôi và Hắn thân nhau rất tự nhiên. Chúng tôi có nhiều điểm tương đồng của lính Trỗi nhưng cũng có nhiều khác biệt. Hắn vẫn như xưa, vẫn nghịch ngợm nổi tiếng trong đám học viên con em cán bộ. Tôi thì ngược lại, cái danh hiệu Đảng viên làm tôi thuần hơn, ít trèo tường bỏ học hơn .

Gần một năm trời ôn thi tại Lạng Sơn, chúng tôi sống như trong trại giam, chủ nhật một tiểu đội chỉ được 2 "vé" ra chơi thị xã. Mỗi lần như thế, hắn thương cái thằng Đảng viên trong tôi nên đều nhường vé cho tôi, còn hắn thì đi theo “lối nhỏ”. Chuyện ra phố khó khăn vậy mà chẳng ngày nào hắn và lũ em K9 vắng mặt ở cái thị xã nhỏ này. Chẳng mấy ai không biết lũ chúng tôi, từ các cô mậu dịch viên xinh đẹp trong cửa hàng giải khát đến bà bán chè chén vỉa hè..v.v. quan hệ của chúng tôi rộng lắm, ai cũng ngưỡng mộ đám lính quân hàm “sơ mít” con ông “cốp” nhất là các em gái Lạng Sơn.

Một lần tôi và hắn trèo tường ra thị xã chơi buổi tối, khi chuẩn bị về hắn rủ tôi đến nhà một người quen.

Muộn rồi về thôi! Tôi giục hắn

Hôm nay tao có hẹn, muộn một chút! việc "chó" gì! Hắn động viên tôi. Mà Hắn vẫn thường xuyên đi về muộn như thế có mấy ai biết nên tôi cũng yên tâm.

Chúng tôi đi vào một căn nhà nhỏ trong con hẻm trên phố Kỳ Lừa. Từ khe cửa tôi thấy một cô bé tóc đuôi sam, má đỏ hồng đang học bài, khi chúng tôi vào cô bé mừng ra mặt, như đã chờ đợi từ lâu.

Xinh thật! Hắn quen từ bao giờ vậy? Hóa ra bấy lâu nay tôi cứ tưởng mình biết rõ về Hắn. Tôi biết Hắn quen nhiều cô gái trong thị xã này, có nhiều cô mê hắn như điếu đổ mỗi khi Hắn đàn hát, giọng Hắn khàn khàn rất quyến rũ . Riêng cô bé xinh đẹp này thì tôi không biết. Phải nói thật lúc bấy giờ nỗi lo bị kỷ luật tan biến hết. Tôi ngồi ngắm cô bé, cô bé nghe Hắn nói chuyện và sau đó Hắn giảng một bài toán vật lý lớp 9 cho cô bé. . .

Trên đường về tôi bảo : "mày giảng không hiệu quả đâu, tao thấy nó có nghe đâu mà mày cứ thao thao ...”

Tao biết, chính vì thế tao mới rủ mày đi. Hắn trả lời tôi như vậy đấy! Tôi hơi bực và lại bị bất ngờ vì chẳng bao giờ nghĩ Hắn lại đàng hoàng thế .

Nó thích, mày thích thì việc gì mà sợ, ngữ mày mà còn sợ mang tiếng “đểu” à. Hắn im lặng không cãi làm tôi ân hận. Suốt dọc đường về chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào, thậm chí lúc vượt tường thành cổ (Trường VHQĐ nằm trong thành cổ) chúng tôi làm những đông tác công kênh nhau cũng chẳng thằng nào mở mồm... Đêm ấy khi hai đứa chui vô màn thì thầy Đ bắt gặp nhưng hôm sau chẳng thấy thầy gọi lên, Hú vía!. (Đúng là thầy Trỗi có khác, lại cứu trò)

Mấy hôm sau tôi làm lành hỏi nhỏ “Không đi dạy nữa à?”. Hắn gật đầu xác nhận. Chẳng biết trong đầu hắn nghĩ gì? Còn tôi thì thấy trong con người ngỗ ngược ấy là tâm hồn trong trắng, thánh thiện và tử tế.

***

Lên Đại học KTQS tôi và hắn vẫn cùng một đại đội, các trò cũ lại tiếp tục và phát triển còn hơn cả ngày chúng tôi ở Lạng Sơn. Tuổi trẻ nhiều khi không biết điểm dừng cho đến khi nhìn lại …Cả nhóm chúng tôi bị kỷ luật nặng, hầu hết bị đưa đi rèn luyện một năm tại các đơn vị Hải quân. Riêng hắn do nhận hết tội về mình nên bị nặng nhất nhưng không ai nghĩ đến mức độ phải ở tù. Hôm xe quân pháp về, nhìn hắn bị còng tay tôi buồn lòng và bất lực…

Thời gian trôi đi, những chú lính nghịch ngợm sau một năm ra đảo trở về tiếp tục học tập (tất nhiên là bị tăng K), rồi cũng ra trường và về các đơn vị. Cho đến hôm nay có chú đã là Trung tướng lãnh đạo một tổng cục quan trong trong QĐ, có chú ra ngoài làm bí thư một quận lớn ở HN, có chú là đại biểu khối doanh nghiệp trong QH…Hầu hết họ đều trưởng thành và tiến bộ nhanh chóng. Còn hắn, học hành dở dang không bằng cấp với một tiền án không biết hắn phải xoay sở ra sao để sống. Thỉnh thoảng tôi có gặp một vài anh em, họ nói em có gặp anh K6 ở chỗ này, chỗ kia. “Anh ấy trông tiều tụy lắm..” mấy chú xót xa nói. Không xót xa làm sao được, mấy chú em thành đạt giàu có muốn giúp ông anh mà đành chịu. Họ biết K6 là người khái tính. Còn tôi cũng buồn vì ngần ấy năm trời mà chưa tìm gặp hắn một lần trong lòng cứ nghĩ chắc nó giận mình lắm..

Rồi tôi lại gặp Hắn sau hơn 20 năm từ cái ngày hắn bị bắt. Chúng tôi ngồi chuyện trò nơi quán bia hơi vỉa hè. Người gầy hơn xưa nhưng tính tình vẫn vậy có điều là trầm hơn do tuổi tác cùng những năm tháng lang bạt kỳ hồ. Hắn ít khi nói về mình nhưng tôi biết hơn 20 năm ấy hắn đi rất nhiều nơi, từ những bản làng heo hút vùng sơn cước đến các chốn độ thị, rồi Lào, Căm Pu Chia làm đủ mọi nghề, quan hệ với đủ mọi loại người. Để kiếm sống hắn phải bươn chải với không biết bao nhiêu công việc, có thể đôi lúc có những việc không thiện. Hắn bảo với tôi : "Cho mãi đến bây giờ tao không thể quên được ánh mắt của mày nhìn tao khi bị tụi quân pháp nó còng tay”. Tôi thực sự cảm động vì hình như hắn nhận thấy sự chia sẻ của tôi với Hắn trong lúc ê chề nhất của cuộc đời..

Biết Hắn vừa lấy vợ, vợ Hắn là cô gái một tỉnh biên giới phía Bắc, trong một gia đình nền nếp. Cô ấy là công chức kha khá của tỉnh. Tôi mừng cho Hắn vì từ nay đã có bến đậu, nhưng cũng lo cho hắn về gia cảnh…Tôi biết với Hắn ở cái thị xã biên cương này, với bề dày lăn lộn của cuộc sống giang hồ Hắn không thiếu cách kiếm tiền nhưng liệu có hợp với cô vợ công chức kia không?

Chúng tôi vừa uống bia vừa nói đủ chuyện khi sang đề tài vi tính thấy Hắn cũng chăm chú, tôi đề nghị tặng Hắn hai quyển sách, Hắn ưng ngay. Tôi bỏ bàn bia chạy ngay về nhà, mang đến đưa Hắn. Đó là hai cuốn viết về Foxpro …

Sau buổi đó tôi và Hắn thường điện thoại cho nhau, biết Hắn ngày càng say vi tính tôi cũng mừng nhưng tôi không thể ngờ bắt đầu từ hai cuốn sách đó Hắn lại chuyển hướng cuộc đời.

Khi tôi lên thăm Hắn thì thực sự "choáng", mới chỉ một năm mà trên giá sách đầy kín sách vi tính. Quả là Hắn thông minh mới có thể vật lộn với mớ kiến thức phức tạp đó, mà toàn tiếng Anh mới khiếp. Nếu nói là hắn siêu thì chưa đúng vì thế giới vi tình quá rộng lớn, nhưng nhiều người từng học đại học chuyên nghành này cũng chưa thể lấy đó làm phương tiện kiếm cơm được. Vậy mà Hắn thì ngược lại, từ việc nhỏ như các dịch vụ thông thường đến những hợp đồng lớn Hắn đã kiếm được không ít tiền. Một cuộc sống ổn định và hạnh phúc đã đến với Hắn.

Tao có công nhóm lại lửa cho mày đấy nhé! . Tôi đùa “kể công” tưởng chi là để vui vậy mà Hắn cám ơn tôi, làm tôi một lần nữa ngỡ ngàng. Tôi làm gì được cho Hắn đâu ,chẳng qua cũng chỉ là chuyện chơi chơi tình cờ vậy. Ngồi bên tôi còn vài người bạn (nhỏ tuổi hơn tôi và Hắn) trong những năm khó khăn trước kia đã chia sẻ với Hắn nhiều lắm, đáng lẽ những lời cảm ơn ấy phải dành cho họ.

Tôi xúc động không phải vì Hắn cảm ơn tôi mà vì mình có một thằng bạn tuyệt quá. Tôi tự hào về hắn, cuộc sồng dù thay đổi nhưng trong hắn tôi biết có những điều không bao giờ thay đổi.

Khắc Việt K7

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2008

Cú chuyển tiền ngọan mục

Trong cuộc đời, có lẽ, ai cũng có ít nhất một lần liều mạng, dám đương đầu với pháp luật, (nhất là khi mà pháp luật lỏng lẻo có nhiều kẽ hở). Tôi đã có lần rơi vào tình huống như thế. Vì tiền ư? – Không phải, vì có được là bao! Vì tình cảm ư? – Có thể, nhưng có lẽ vì sĩ diện thì nhiều!

Từ năm 1992, nhà nuớc chấp thuận cho cá nhân và tổ chức đi nước ngòai về được mang tiền mặt ngoại tệ vào VN. Trước đó mang tiền vào rất phức tạp nên nhiều phi vụ “làm ăn” cũng được “thiết kế”; nay thì càng nhiều càng ít, miễn là phải khai báo.

Sau 2 năm “chiến đấu” ở mặt trận Đông Âu, đặc biệt Liên-xô và Ba-lan, tôi có ý định về nước. Tạm biệt “trận tuyến” không đơn giản, phải chia tay hết đồng đội ở Ba lan rồi ở Nga. Đông lắm mà chia tay đâu chỉ bắt tay suông, còn phải nâng lên hạ xuống.

Trước khi rời Vac-sa-va, cánh Lê Đình Đạo, Dũng Zenek, Thắng “con” làm tiệc chia tay ở khu biệt thự gần Học viện quân sự WAT. Cả bọn ngồi dưới hầm ăn nhậu, hò hát, say bí tỉ. Tới khuya tiệc mới tàn, ra xe về tôi vừa nhắm mắt ngủ gà ngủ gật vừa cầm vô-lăng lái chiếc Volkswagen-Passat (đít Comby) phóng ra xa lộ. Ông anh Trần Đình Ngân (từ Đức sang chơi và tiễn đưa) ngồi bên cạnh, luôn mồm chỉ huy “đi thẳng, rẽ phải, rẽ trái… từ từ thôi”. Cứ thế xe về tới bãi xe ở Bolkovska mà không hề tai nạn. (May là đường đêm vắng xe và không gặp cảnh sát xa lộ!). Dừng xe vào đúng vị trí, (bên Tây xe toàn vứt ở vỉa hè), vừa mở cửa xe ra là “John Lénon”, bao nhiêu của thiên lại trả địa hết(!). Người mềm như sợi bún được ông anh dìu lên nhà... Hôm rời Vac-sa-va, anh Ngân, Nguyễn Văn Vượng (em ông Hiệu) cùng bạn bè ra tiễn tận sân ga.

Trên chuyến tầu về Mat, khi qua cửa khẩu Brest, mấy chú biên phòng lên kiểm tra. Khi cầm passport của tôi xem qua rồi ngoắc tay chỉ ra đầu toa. Có việc rồi, tôi nghĩ bụng. “Pass này sao không có visa?”. “Tao vẫn đi qua lại biên giới bằng pass này, không cần visa”. “Xưa rồi, nay hộ chiếu phổ thông AB không còn tác dụng miễn thị thực. Mày phải quay về Ba-lan!”. Biết ngay mấy chú có ý định làm tiền. Tôi cười khẩy: “Này, 20 nhé!”. Lắc đầu. “30!”. “Njet!”. “Thôi, 50 OK?”. “OK!!!”. Các chú thản nhiên cầm tờ 50 đô rồi bỏ sang toa khác.

Đã hẹn nên được đón ở ga Belarusia Vakzal. Về tới Mat là có ngay kế họach đi chơi Len và Kiev. Được cộng đồng người Việt quý nên đi đến đâu, anh em cũng nghênh tiếp, hết Trí “béo” đến Tiến Long, Thạch “béo”... Lúc thì tiểu yến tiệc khi thì đại tiệc, hết vào thăm chợ bán buôn quần áo ở Saliut lại đến ăn lòng lợn tiết canh ở quán cơm Chí Hòa tại Dom 5 mới… Lang thang mãi tới cuối tháng 8 thì quyết định book vé về Hà Nội.

Có ông anh đã nhiều năm làm việc với Viện Hàn lâm nên quan hệ khá rộng với các quan chức. Hơn nữa chuyên đưa đón đòan ra đòan vào nên ông anh cũng quen cánh an ninh và hải quan sân bay Serementjego. Biết lần này ông anh cùng về nên các “sóai” (tên gọi các đại gia) đặt ngay vấn đề “nhờ chuyển tiền” về nước. (Dĩ nhiên là chuyển ngân lậu). Theo các chú cửa khó nhất là cửa ra, nếu có cán bộ Viện Hàn lâm tiễn ra sân bay thì coi như an tòan tuyệt đối. Thật ra những năm ở Ba lan đâu có biết gì những chuyện này, nhưng thấy ông anh bảo ở Mát chúng nó vẫn làm như thế mỗi khi có khách VIP về nên tôi yên tâm và liều nhận làm kẻ “mang bom”.

Ngay buổi chiều, cả trăm ngàn đô được bàn giao. Mười xấp tiền, nhận chẳng kí tá gì cả. Bà chị kì cụi đạp máy may ngay cho 1 băng đạn. (Cứ hình dung giống như băng đạn AK nhưng nhỏ, gọn hơn, có 10 túi). Mỗi túi găm được chục nghìn. May xong, tôi nhét tiền vào rồi ướm thử. Lúc đó “có bụng” nên dù đã khóac bên ngòai áo vest mà đứng trước gương cứ thấy tiền cộm lên như có chửa. Không ổn! Thử buộc băng đạn sát lên nách, thấy khả dĩ hơn. Nhưng vẫn phải mặc thêm áo len ngắn tay dưới áo vest để hình băng đạn đỡ nổi cộm. Vậy là xong phần “ngụy trang”, còn lại là phải đóng kịch thật chuẩn, vẻ mặt phải bơ như củ khoai, không được lo lắng.

Tiền “di vu” chỉ là mấy “vé” nhưng vì bọn đàn em sống rất tình nghĩa nên cũng liều giúp. Nói vậy mấy hôm liền sống thấp thỏm lo âu, từng có ý định trả lại để vừa an tòan vừa không bị stress. Lỡ “bị sao” thì chắc chắn phải “bóc lịch”, mà chả hiểu nằm tù ở Nga ra sao? Trước đó trong cộng đồng người Việt ở Đông Âu có vụ viện sĩ Chu Văn Dóng (Chử Văn Đông) găm trong người (hay đâu đấy!) cả triệu đô qua Brest (theo đường sắt liên vận) bị hải quan Nga phát hiện. Hắn bị tống giam 6 tháng ở nhà tù gần biên giới. Bên ngòai đệ tử phải lo lót mãi mới xong. Nghe nói trong tù còn bị bọn đại bàng bắt phục dịch, cả vụ thỏa mãn sinh lý. Nghe mà ghê! Nhưng từ chối cũng kì kì vì đã nhỡ nhận lời(!). Thôi thì một liều ba bảy cũng liều!

Sáng hôm ấy dậy thật sớm. Đóng bộ đủ vào rồi đi đi lại lại trong phòng. Phải cố tập cho dáng đi thanh thản với vẻ mặt tỉnh bơ, không để lộ ra là “ôm bom”. Đúng 8g, chiếc Volga đời mới của Viện Hàn lâm đến đón, chờ dưới sân. Lukônil, cán bộ Vụ Hợp tác quốc tế, lên uống ca-phê rồi giúp chuyển va-ly ra xe. Xe vòng ra đường vành đai ngòai trực chỉ hướng sân bay Serementjego.

Đến nơi thấy nhà ga đã bắt đầu tấp nập, nhất là dân Cộng. Đưa đón đã là nghề, quen hết nên Lukônil dẫn chúng tôi băng băng qua các cửa. Cửa cuối cùng là cửa VIP. Đang đầu thu, trời mát nhưng vì thẳng lưng đẩy xe chở đồ và canh cánh lo đống tiền nhồi trong người mà mồ hôi ướt đầm lưng áo sơ-mi, thấm ra cả áo len. Ông anh thỉnh thỏang khẽ động viên: “Kệ nó, cố thật tỉnh bơ!”. Nói vậy nhưng tôi luôn đảo mắt xem thái độ của bọn Tây ra sao.

Tuy đi cửa VIP nhưng không có hộ chiếu đỏ nên vẫn phải mở hành lí ra kiểm tra. Hỏang nhất khi chú Tây ra hiệu đặt va-ly lên bàn kiểm tra (ngày ấy Serementjego chưa có máy soi), tôi phải cố gồng thẳng mình lên vì còng lưng xuống là sẽ cộm lên hình đường viền của băng đạn. Lukônil thì mải tán phét với mấy chú hải quan. Thật may vì bọn Tây đã tin ai thì lỏng lẻo vô cùng, thậm chí chẳng thèm soi mói. Nhìn va-ly không có gì lậu, cậu hải quan khóat tay cho đưa va-ly vào băng chuyền.

Từ bàn hải quan, tay xách cặp diplomate, tôi cố gắng đi thật thẳng người. Ông anh đi sau tán phét với Lukônil. Tại cửa an ninh cuối cùng, sau khi kiểm tra pass, chú sĩ quan cửa khẩu cầm máy rà kim lọai lướt quanh người. Toát mồ hôi, chỉ sợ máy phát ra tiếng kêu là toi. Vậy mà không thấy phản ứng gì. Anh ta gật đầu rồi đưa tay phải lên vành mũ chào. Thế là thoát. Vội bắt tay Lukônil. Khi đã bước vào cửa ống dẫn ra máy bay, tôi cố lấy cột sống làm trục rồi khẽ xoay người, vẫy tay chào Lukônil. (Lúc ấy vẫn sợ lộ!).

Vào tầu, tìm đúng chỗ ngồi, tôi vào ngay toilette tháo băng đạn ra. Một cảm giác lâng lâng, người như được nhấc bổng lên. Sướng quá! Khi cầm đống tiền nhét hết vào cặp, 2 anh em nhìn nhau cười hể hả.

Trưa hôm sau về tới Nội Bài. Chú em Đông được báo trước đã ra hướng dẫn làm tờ khai. Khi thấy tôi bày ra bàn cả trăm ngàn đô, chú trưởng kíp trợn mắt kính phục. Vậy là kết thúc chuyến chuyển ngân lậu quá ư là liều mạng.

Thầm nghĩ đây là lần đầu nhưng chắc cũng là lần cuối. Nhờ giời nên không lộ, nếu không chắc cũng phải “bóc lịch” vài niên ở Nga vì tội chuyển ngân lậu…

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2008

SỰ MAY MẮN CỦA SỐ PHẬN

Đào Duy

Người đàn ông mà tôi sắp kể với các bạn đây có một số phận “kỳ lạ”, cho tới bây giờ chỉ còn ít ngày nữa nhận sổ hưu, sáu mươi năm của đời người vèo qua anh cũng không hiểu nổi vì sao cuộc đời anh lại may mắn như thế khi lứa tuổi anh cùng quê sau trước đều bỏ xác lại chiến trường.
Anh sinh 1948, là con trai độc nhất trong gia đình có bốn chị em. Ông anh chỉ sinh được bố anh sau hai bà bác. Cụ đẻ ra ông anh cũng vậy … Tóm lại sáu đời nhà anh mỗi đời duy nhất sinh được một người con trai cho tới thế hệ anh, anh là hy vọng duy nhất của dòng họ nhận trách nhiệm trông nom thờ phụng tổ tiên và nối dõi tông đường.
Năm 1965 học hết lớp 10, thời đó ở làng học hết phổ thông là gớm ghê lắm, cả tổng cả huyện số học sinh như anh đếm trên đầu ngón tay. Anh học giỏi và nghiễm nhiên con đường học vấn rộng mở trước mắt. Lý lịnh nhà anh chả “trong” như nước giếng làng nhưng cũng chả đến nỗi “đục”như nước sông mùa lũ, họ nhà anh không ai làm cho ta và cũng chả có ai dính dáng giúp “tây” chỉ thuần khiết là anh nông dân “chân đất mắt toét” lương thiện nhưng có truyền thống coi trọng sự học hành và có tư chất.
Chiến tranh báo hiệu những tháng ngày cam go ác liệt khi Mỹ ào ạt đổ quân vào cửa biển Đà Nẵng. Giữa năm 1965 trai tráng trong làng lục tục nhập ngũ. Anh được hoãn đợt đầu tiên trong xã vì nhà con “độc”. Thế là anh vào đại học. Cắt nhân khẩu khỏi địa phương và từ đó anh là người “nhà nước” không còn dính líu gì tới danh sách nghĩa vụ quân sự của xã của huyện. Anh học sư phạm, nghề giáo - nghề cao quý, là niềm kính trọng, là mơ ước của xã hội của của giòng họ và của chính anh.
Anh học hết năm thứ nhất, hết hè vào năm thứ hai được nửa học kỳ thì chiến tranh không còn là sự phỏng đoán âu lo của người dân Việt nữa nó đã ở đâu đó rất gần. Mỹ ném bom ác liệt ra toàn miền bắc chiến tranh lan rộng cả nước với quy mô lớn hơn, ác liệt hơn, lính mỹ hiện diện nhiều hơn trên chiến trường.
Lúc này bộ phận tuyển quân của bộ quốc phòng đã bắt đầu để ý tới đám sinh viên các trường đại học. Đợt đầu tiên tuyển quân ở trường anh người ta chỉ giới hạn tuyển chọn sinh viên đang học năm thứ nhất trong khi đó anh lại đang học năm thứ hai. Năm thứ ba đại học của anh bắt đầu được mấy tháng trường lại có đợt tuyển quân mới và lần này quy mô tuyển quân rộng hơn, phạm vi tuyển quân từ năm thứ nhất đến năm thứ hai, thế là mọi sự chuẩn bị trở thành người lính của anh đành lỗi hẹn. Khi anh học năm thứ tư, kỳ tuyển quân bổ sung bắt đầu ngay từ đầu năm, lần này số sinh viên tham dự tuyển quân được chọn lựa từ năm thứ nhất đến năm thứ ba, anh lại trượt vì đang học năm cuối. Thế là đời lính cứ bám đuổi theo anh suốt thời sinh viên mà chẳng bén duyên.
Ra trường năm 1969 anh được bộ phân công về ty giáo dục Hà Tĩnh nhận công tác. Sau cả tháng trời đi bộ, nhờ xe, tránh bom, tránh đạn anh cũng có mặt tại ty giáo dục Hà Tĩnh đúng thời gian ghi trong tờ giấy điều động. Ty giáo dục phân công anh về trường cấp ba Cẩm Xuyên đứng lớp.
Là sinh viên mới ra trường với bao háo hức anh lao vào công việc hăng say, nhiệt tình như chàng võ sỹ quyền anh sau khi nghe tiếng chuông nhập trận. Mảnh đất nghèo khó đầy bom đạn nhưng lòng hiếu học và sự tôn kính thầy cô ở cái giải đất miền trung nắng gió này đã cho anh thêm tình yêu nghề, níu giữ anh qua những năm tháng khó khăn.
Thế rồi tình yêu đôi lứa đến với anh trong ác liệt của đạn bom. Cô gái có mái tóc dài và giọng nói như chim - học sinh cũ của anh, cảm rồi yêu người thầy dạy văn trẻ trung sôi nổi. Nhưng tình cảm đầu đời của hai người không kéo dài, cô gái đã chết trong một trận bom mỹ đánh đoàn xe chở hàng vào chiến trường nằm ở làng cô chờ tối để tiếp tục hành quân. Một quả bom lạc … và thế là anh vĩnh viễn anh mất người con gái ấy.
Năm bảy mốt trong danh sách tuyển quân của huyện Cẩm Xuyên, phòng giáo dục huyện có năm người trong đó có tên anh. Qua bốn năm vòng khám cầm tờ giấy sức khỏe với chỉ số cân nặng 59 kg, chiều cao 1m 70, “tim, gan, phèo, phổi” tốt anh tự tin bước vào phòng kết luận cuối cùng. Trong phòng chỉ có anh và người bác sỹ đã lớn tuổi. Không nhìn tờ giấy anh đưa với giọng khu bốn nằng nặng vị bác sỹ hỏi anh:
- Anh quê đâu?
- Tôi người miền ngoài.
- Anh làm nghề gì?
- Tôi là giáo viên cấp ba?
- Giáo viên cấp ba à! Người bác sỹ già ngạc nhiên nhướng mục kỉnh lên nhìn anh.
Sau một hồi im lặng kéo dài đôi mắt vị bác sỹ hướng qua ô cửa nhìn về một nơi nào đó như xa lắm rồi chập rãi quay lại:
- Anh vào dạy trong này lâu chưa?
- Ngay sau khi tôi ra trường.
….
Người bác sỹ già nhìn chàng thanh niên tri thức trẻ ngồi trước mặt mà lòng đầy ái ngại. đặt bút xuống bàn lúc này ông mới đọc tờ trích ngang và phiếu kiểm tra sức khỏe của anh, rồi ông ngẩng lên.
- Ác liệt đấy! phía trước không đơn giản như chúng ta ngồi đây đâu, đã sẵn sàng chưa? Vừa nói ông vừa nhìn như đoán định từng ý nghĩ trong đầu anh
- Tôi đã chờ đợi ngày này từ nhiều năm nay.
Cảm kích thái độ của anh trước thời cuộc, cảm kích tấm lòng của người giáo viên trẻ đã từ bỏ quê hương yên bình vào tận quê ông xa xôi nơi chiến tranh ác liệt, nơi nghèo đói khắc nghiệt để đem con chữ cho lũ trẻ nơi quê ông và nhiều điều khác nữa trong lòng ông, ông đồng cảm với anh chăng? hay ông thương anh “miếng mồi béo bở” của chiến tranh đang rình rập chờ anh nơi cánh rừng nào đó xa kia … những dự cảm về con người về thời cuộc cứ trộn rộn trong lòng mà ông không sao lý giải nổi, ông thấy mến anh với cả tấm lòng kính trọng
Ngắm nhìn anh lần cuối, hình như có điều gì đó dằn vặt trước một quyết định rất khó khăn ông bỗng nhớ tới lời thề Hippocrates thuở nào khi giơ tay thề trước khi nhận tấm bằng bác sỹ. Rồi rất nhanh khác với vẻ chậm rãi cố hữu chỉ sợ thời gian làm cho ông thay đổi mất quyết định vừa bột phát xuất hiện trong trái tim ông, người thanh niên này phải sống, chiến tranh như là của ai đó chứ không phải dành cho anh người mà ông phải đại diện cho thế hệ học sinh trên mảnh đất Hà Tĩnh quê hương ông hàm ơn anh.
- Tôi cảm thấy anh không được khỏe, có thể anh gặp một vài trục trặc nào đó mà họ chưa phát hiện ra chăng? Tôi sẽ khám lại cho anh. Giọng người bác sỹ quả quyết
Sau khi khám lại “thật kỹ” vị bác sỹ già cặm cụi ghi chép vào phần kết luận của tờ phiếu sức khỏe nghĩa vụ quân sự rồi đưa cho anh đôi mắt ông quay đi hướng khác.
- Xong rồi anh có thể về, chúc anh may mắn. Vị bác sỹ đứng dậy tiễn anh ra cửa.
Thế là lại hỏng ăn, anh bị gạt ra khỏi danh sách trúng tuyển nghĩa vụ một lần nữa. Ai dám tuyển anh khi trong phần kết luận của bác sỹ người có tiếng nói quyết định trong hội đông tuyển quân “ Tim có vấn đề chưa rõ nguyên căn”.
Năm 1972 anh tình nguyên nhập ngũ sau từng ấy năm lần này anh được toại nguyện. Sau huấn luyện anh theo đơn vị vào tây nguyên. Đánh nhau bao nhiêu trận suýt chết, khi tấn công đánh chiếm Buônmathuột đầu năm 1975 lưỡi hái tử thần một lần nữa “chê” anh, chiếc mũ cối bay đi giập nát còn cái đầu đầy chữ và thơ phú của anh thì vẫn còn nguyên chỉ mất mảng tóc quăn bồng bềnh trước trán.
Từ đó cho tới khi kết thúc chiến tranh anh chẳng hề hấn gì, không một vết xước, chiến tranh không sờ tới anh. Giải phóng Sài Gòn sau quân quản anh làm đơn giải ngũ xin trở về quê với nghề dạy học. Tổ chức giải quyết theo nguyện vọng của anh. Anh về quê với nghề – Gõ đầu trẻ và một phần cũng là vì lời hứa và trách nhiệm của anh với cả dòng họ, thờ phụng trông nom bàn thờ tổ tiên.
Chuyện của anh chỉ có vậy thôi, nhưng với thế hệ của anh, anh thực sự là người may mắn, tất cả những ai đã từng kinh qua thời khắc ác liệt nhất của chiến tranh cũng đều bảo thế. Câu chuyện này tôi tình cờ được nghe anh kể trong một bữa rượu với vài người bạn lính trong đợt đưa vợ con ra Bắc hè vừa rồi.
T/p Hồ Chí Minh hè năm 2008.