Thứ Năm, 17 tháng 7, 2008

NGHỀ NGHIỆP Ở XỨ TA

Cuộc sống thay đổi có những nghề truyền thống trong dân gian được lưu truyền sáng tạo và người đời gìn giữ mãi. Như nghề mộc, nghề gốm, nghề sơn mài, nghề thợ may, nghề làm bún, nghề làm giò chả, thậm chí cả nghề cô đầu, nghề tẩm quất…Có những nghề mai một dần theo năm tháng như nghề vẽ truyền thần, nghề làm guốc mộc, nghề làm mắm rươi, mắm cáy ( vì rươi, cáy ngày dần tuyệt chủng)… có những nghề phát sinh theo từng thời kỳ và cũng chết khi giai đoạn lịch sử đó chấm hết như nghề nhuộm răng đen đầu thế kỷ, nghề chạy xe tay, nghề bơm bút bi, nghề hàn dép nhựa, nghề khắc bút máy, nghề làm và sửa chữa dép cao su …
Thời bao cấp đói kém ở miền bắc phát sinh ra cái nghề bơm bút bi, nghề hàn dép nhựa. Ngày ấy ra đường thấy tay nào túi ngực nhòe nhoẹt xanh đỏ là biết ngay tay ấy không giáo sư, trí thức thì chí ít cũng gánh sinh viên, học sinh. Bút bi có thể bơm dùng nhiều lần cho tới khi hở “bạc” mới thôi, bút đã hở “bạc” rồi thì chỉ có vứt, vì nếu không túi thầy, túi cô … có tài thánh cũng không thể giặt sạch được loại mực tự chế của cái anh bút bi này. Đầu những năm 1960 tôi có ông anh đem từ Đức về cái bút bi nhìn thấy “khiếp”, mấy chú trong khu tập thể có hiểu biết còn gọi nó là bút “nguyên tử”.
Nghề hàn dép nhựa, đôi dép “khéo đi” có thể xài được vài năm, đứt quai hả?hàn! lại tốt Mòn đế hả?hàn! kéo lê thêm được dăm bảy tháng. Mà đồ nghề tác nghiệp của mấy bác thợ này có quái gì đâu ngoài lưỡi dao cùn, cái bếp dầu và dăm ba miếng nhựa phế thải.Có những đôi dép nguyên thủy màu trắng như dép tiền phong ( của này hiếm dân sổ A, sổ B mới có tiêu chuẩn, ngoài ra phải lùng ngoài chợ đen ) khi thanh lý bán ve chai thì hình hài của nó chỗ nâu, chỗ vàng vì được hàn bằng nhiều nguyên liệu khác nhau trông vui mắt. Bà ve chai dứt khoát đánh giá đôi dép cũ tôi bán là hàng nhựa tái sinh nên đòi giảm giá còn tôi thì ngược lại vì đôi dép của tôi nguyên thủy là nhựa tiền phong cơ mà. Nhưng rồi lý lẽ thuộc về kẻ nắm “khìn” trong túi nên tôi đành hập hực cầm đôi ba hào tiền lẻ bà ve chai hào phóng dúi cho. Dép làm bằng nhựa tái sinh mùa đông cứng như guốc gỗ đi thì kêu lộp cà lộp cộp còn quai thì cứng quèo cứa vào chân như lưỡi dao cùn của lão thợ cạo ngoài phố đau điếng nhưng vẫn thấy oai vì dù sao cũng thuộc đẳng cấp khác, có dép nhựa đi.
Nghề sửa và bán dép cao su, tôi dám chắc không 100% thì cũng 99% trong túi quần sau của cánh lính ta bao giờ cũng có một cái rút dép làm bằng sắt lấy từ đai kiện hàng. Vì thời anh em ta đa số chỉ thuần chủng đôi dép cao su bạn đường. Tôi nhớ có một lần học ở ĐHKTQS trốn về HN nhân chiều thứ bảy, lính binh nhì, binh nhất thì làm quái gì có tiền nên bọn tôi phải “lụi” vé nhảy tầu. Thường tôi hay “tiếp đất” ở ga đầu cầu cho chắc ăn vì đoạn này mới qua cầu Long Biên nên tàu chạy chậm. Lần ấy không hiểu sao qua cầu rồi mà tốc độ tàu chạy lại cao hơn thường lệ. Kệ! tôi quyết định nhảy. Hai mắt dáo giác quan sát phía trước. Tôi buông người chạy đà theo hướng tàu chạy, nhưng tốc độ tàu và đà chạy của tôi không đồng bộ thế là chân nọ đá chân kia tôi ngã quay đơ, lăn long lóc như cái bao tải hàng trên sân ga vắng ( tàu không đỗ ga này ) trong ánh sáng vàng vàng èo uột của một vài ngọn đèn trên sân ga Long Biên trong một chiều đông chạng vạng. Nằm cong queo dưới đất định thần nghe ngóng “cơ quan đoàn thể” xem có chỗ nào bị “sứt mẻ” gì không, bỗng tôi thấy tiếng bước chân thình thịch chạy về phía tôi. Bỏ mẹ rồi! nhảy tàu trốn vé chứng cứ pháp lý lù lù ra đấy có mà cãi “giời”, bị phạt là may không khéo còn bị làm mồi cho lũ muỗi đói ở “bót” Hàng Đậu đêm nay cũng nên, tôi nghĩ trong đầu và nằm im giả như bị thương nặng lắm hy vọng nỗi thương cảm lay động trái tim tay nhân viên kiểm vé nào đó đang chạy lại phía tôi kia. Khi tới sát bên tôi hắn cúi xuống nhìn rồi như chưa thật tin vào mắt mình hắn còn đá đá vào mông tôi mấy cái đau điếng như kiểm tra xem nó là cái giống gì rồi hắn vội vã quay đi miệng làu bàu chửi: “ Mẹ nó chứ!, không khéo bao hàng trốn thuế của mình thuế vụ nó thu bố nó rồi cũng nên, thằng cha bộ đội chết tiệt làm mình tưởng bao đồ của bạn hàng vứt xuống mất hết cả thời gian”.
Nhẹ cả người nhưng vừa bực, vừa tức, vừa cám cảnh cho cái tình người thời “đói kém”. Cũng may người ngợm chẳng hề hấn gì chỉ toạc tý đầu gối quần tôi lồm cồm vừa phủi quần áo vừa đứng dậy.
Quái! Lại văng mẹ nó đi đâu mất toi chiếc dép cao su tầu vừa được phát quân trang đợt vừa rồi? Đôi dép mà tôi nâng niu gìn giữ còn hơn giữ “mả tổ”. Ở mũi hai chiếc dép tôi đã cẩn thận dùng dao khoét một miếng để đánh dấu cho khỏi lộn với dép của những thằng khác trong phòng. Tiếc ngẩn ngơ, tôi lần mò tìm hết đoạn đường ke xem có rơi đâu không, gần hai chục phút công toi. Thế là tôi thất thểu chân dép, chân không đi bộ xuống phía đầu cầu. Đang đi tự dưng tôi thấy cồm cộm nơi bắp vế, dừng lại kéo ống quần lên xem sao, thật kinh ngạc, các bác có biết gì không? tôi thấy chiếc dép cao su mà tôi tưởng đã mất chả hiểu sao lại tuột lên tới tận bắp vế nó ôm chặt lấy bắp chân tôi như con Koala (gấu túi) ở xứ Úc châu ôm chặt lấy thân cây bạch đàn. Mừng như vớ được vàng, chả hiểu lý cú ra làm sao? Mãi sau này tôi mới biết nguyên do. Số là tôi bị chứng phong thấp, hay đổ mồ hôi chân nên giầy dép tôi đi lúc nào cũng ướt nhẹp nhất là vào mùa hanh khô cộng với tính lười cố hữu, mùa đông có khi cả tuần tôi mới rửa chân một lần mồ hôi cộng với bụi ghét ở chân tạo ra một dung dịch nhờn nhờn, dinh dính và cực trơn, tôi thề! nó còn trơn hơn cả loại dầu nhớt mà hãng BP hay quảng cáo trên tivi. Khi ngã bị vướng thế quái nào mà chiếc dép lại trượt lên tới tận “trển” chả trách tôi không phát hiện ra. Nói các bác đừng cười đi dép còn đỡ chứ tôi mà đi giầy ngủ trưa tháo chân ra trong phòng chật nhét tới tám thằng thì cứ gọi là cóc chết phải lạy bằng cụ, bọn bạn tôi nó chửi tôi như hát hay vì cái tội chân thối tra tấn lỗ mũi chúng nó.
Dông dài một tí với các bác về một kỷ niệm của tôi với đôi dép cao su vì nó liên quan tới nghề dép.
Khi còn bé trên đường đi học về tôi có thể lang thang nhiều giờ liền bên các giá vẽ truyền thần trên con phố bên cạnh nhà hát “nhớn” ( Hải Phòng ) ( Chắc bác Phúc Chiến còn lạ quái gì mấy cửa hiệu này) để ngắm tài của các bác thợ. Tranh truyền thần chủ yếu khách hàng muốn giữ lại những hình ảnh của các bậc sinh thành trưởng lão đã quá cố để trên bàn thờ khi giỗ chạp cho con cháu biết hình hài khi nhớ về ông bà tổ tiên mình. hoặc một vài bức hình đẹp quá vãng của một thời trai trẻ muốn phóng to để nơi phòng khách. Ngày ấy không có phương tiện gì, tất thẩy phải nhờ đến truyền thần. Truyền thần có cái hay rất bền theo năm tháng và tha hồ “sáng tạo”, ở xứ ta độ ẩm lớn ảnh xử lý bằng hóa chất sau thời gian sẽ bị mốc ẩm băng hoại nhưng truyền thần thì không. Thời Pháp thỉnh thoảng có những bức ảnh lụa trên dưới bảy mươi năm mà nước ảnh vẫn sáng, lạ thật! không lẽ công nghệ ngày xưa tốt hơn?
Bố vợ tôi ngày còn họcThăng Long trọ hoc trên căn ghác xép cùng với họa sỹ Tô Ngọc Vân, ông già vợ học được nghề vẽ của danh họa này. Vào những năm cuối thập kỷ sáu mươi đầu bảy mươi cụ mở tiệm chuyên vẽ truyền thần, nhờ có năng khiếu, lại có chút ít cơ bản về nghề cộng với những thúc bách của đời sống tiệm của ông trở nên nổi tiếng.
Có một chuyện thế này, có tay công an trung úy trưởng phường ( Thời ấy là trưởng khu quân hàm trung úy công an là hiếm lắm ) tình cờ đi qua cửa hiệu của bố vợ tôi thấy hay hay hắn đứng lại xem và hình như buột phát từ đâu đó trong sâu thẳm trái tim, hắn bỗng nhớ tới người cha quá cố của mình khi mà ngày giỗ của cụ gần kề thế là đường đột một ý nghĩ lóe lên hắn đề nghị bố vợ tôi vẽ cho hắn một bức chân dung người cha của mình, ông già vợ tôi vui vẻ nhận lời với một đề nghị:
- Ông cho xin một tấm hình của cụ nhà để làm mẫu.
Một thoáng băn khoăn tay công an đáp:
- Nói thật với cụ đến tôi đây cái ảnh lý lịch trong hồ sơ, cơ quan cũng phải thuê thợ về chụp cho rồi trích quỹ thanh toán huống hồ ông bố tôi mất đã lâu khi sinh thời lại nghèo kiết xác bốn đời rau cám thì làm gì có tiền mà dám chụp ảnh, giả sử có tiền đi chăng nữa thì cũng chả ai nhiêu khê lội bộ mấy chục cây số từ quê ra tình để chụp lấy cái hình rồi về có khác nào chuyện tấm cám ngày xưa hơn nữa chuyện này mà vỡ lở ra dân trong làng họ biết, họ chửi cho cái thói học đòi thì cứ gọi là mọt kiếp.
Rồi hắn tiếp:
- Cụ cứ vẽ cho tôi một ông già khoảng sáu bảy mươi là được.
- Thế anh có nét gì giống cụ nhà không? Bố vợ tôi hỏi.
- Không quan trọng cụ ạ, vì trong làng, trong họ nhà tôi bây giờ cũng chả còn có ai tường tận hình hài bố tôi, người thì nói là ông cụ cao to có tí râu ở cằm, người thì “đặc tả” cụ nhà ít tóc lắm, mặt mũi lại nhẵn nhụi, kẻ thì lại bảo cụ tôi có mái tóc quăn quăn, giông giống cánh tây đen đi càn vào làng năm loạn … Chả biết đâu mà lần thôi cụ cứ vẽ như yêu cầu của tôi.
Sự việc đẩy ông già vợ tôi vào thế kẹt. Một quan chức to trong ngành cảnh sát, chối từ thì có mà đem vạ vào thân mà vẽ không đúng ý, phật lòng hắn thì cũng toi. Rồi ông già tôi lẩm bẩm “chó giống cha, gà giống mẹ” còn người thì … phải có nét gì đó của cả mẹ, cả cha chứ rồi ông già tôi quyết định rất nhanh cụ tế nhị quan sát hắn thật kỹ như cố nhớ những nét đặc trưng lạnh lùng mang tính nghề nghiệp trên khuôn mặt khắc khổ của tay công an rồi cụ nói:
- Thôi được tôi sẽ cố xem sao, anh có thể về hai ngày nữa mời anh tới. Tay công an giơ bàn tay cứng như sắt chụp lấy bàn tay cả đời chỉ quen với cây bút, cây cọ của ông cụ nhà tôi với lời cảm ơn.
Hai ngày sau đúng hẹn mới tám giờ sáng đã thấy tay công an thập thò cửa tiệm, chưa có khách bố vợ tôi pha ấm trà ngon và với tay lấy bó thuốc cuộn ra mời.
- Cảm ơn cụ, tôi có thuốc đây rồi.
Nói đoạn hắn rút trong túi ra bao Tam Đảo mới bóc chìa về phía chủ nhà. Hút hết điếu thuốc và chiêu xong tuần trà ông già tôi mới chậm rãi đi vào trong nhà khi ra trên tay cụ là một tấm hình khổ 20X25 được bọc giấy bóng cẩn thận. Tay công an giơ cả hai tay ra đón như giật lấy tấm hình từ ông già tôi và vội vàng mở tấm giấy bóng. Hắn nghiêng đầu quan sát, đưa ra xa, rồi lại kéo vào gần ngắm nghía tấm ảnh một lúc lâu rồi bỗng hắn vỗ đùi đen đét và la toáng lên.
- Đẹp! đẹp quá.
- Giống! giống thật.
- Mẹ tiên sư nó chứ, đứa nào giám mở mồm ra bảo đây không phải là bố ông, ông mà tức lên chỉ nhoằng một chữ ký thằng đó cứ gọi là đi tù mọt xác.
Cơn hưng phấn đang độ cao trào bỗng dưng như quả bóng xì hơi hắn chùng xuống im lặng đến thẫn thờ. Nhìn thái độ của tay công an ông già tôi băn khoăn, chờ một tí ông già tôi mới ngập ngừng hỏi.
- Có điều gì không ổn cần sửa lại ông cứ cho một “nhời”.
- Không chê vào đâu được cụ ạ, cảm ơn cụ, tuyệt lắm! nhưng có điều tôi thấy không ổn là ở chỗ bộ comple , cái cavat đỏ, chiếc mũ phớt nỉ đen, chiếc ghế xalon tàu chạm trổ rồng phượng lại còn thêm bên cạch lọ hoa huệ tây nữa chứ ( Có lẽ bức họa “ thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân ám ảnh bố tôi chăng?) nó Âu Mỹ quá, thế này là ra anh tư sản mất rồi, trật lập trường quan điểm giai cấp thời buổi này là gay lắm không khéo là bỏ bố, mất chức về vườn như chơi. Nói dại chẳng may có thằng nào trong ban tổ chức cán bộ công an tỉnh nó mà nhìn thấy tấm hình này của cụ tôi âm thầm cho trinh sát về tận làng thẩm tra lại lý lịch thì bỏ mẹ, rồi nó vu toáng lên là tôi khai man thành phần thì có phải là chết không, cái chức của tôi bao nhiêu thằng đang nhăm nhe dòm ngó chúng nó “ma mưu, quỷ kế” lắm, sểnh một tí là toi liền. Cụ làm ơn “bỏ” hộ ông già tôi cái mũ phớt, “cởi” bớt bộ comple cùng cái cavat đỏ … cụ cứ cho ông già tôi mặc áo thâm, quần chùng khăn xếp ngồi chõng tre bên cạnh có cái điếu bát thuốc lào là chuẩn, cho nó đúng với gốc tích bần cố nông cố hữu của họ hàng nhà tôi.
Ngày hôm sau quay lại, lần này thì hắn thực sự cảm phục về tài nghệ và chữ tín trong nghề nghiệp của bố vợ tôi, hai tay hắn kính cẩn đón nhận tấm hình sau khi xem lại thật kỹ. Bố vợ tôi thấy hắn người bỗng nhiên cứng đơ ra, miệng ngáp ngáp liên tục như người ốm bị thiếu oxi. Có phải không? Không phải! vì nước da hắn trông vẫn đỏ đắn lắm Hay là hắn cố nuốt những cảm xúc đang dâng trào vào tận đâu đó trong cõi sâu tâm hồn, hắn kiên quyết chế ngự tình cảm không để nó ào ạt tuôn trào mãnh liệt như hôm trước nữa chăng? Ý nghĩ đó cứ vẩn vơ trong đầu bố vợ tôi.
- Đội ơn cụ! Xin được cảm ơn cụ, cho tôi xin được gửi tiền công
Bố vợ tôi không nói im lặng đến máy giây cuối cùng cụ mới chậm rãi:
- Nhìn cảm xúc của anh khi thấy anh ngắm tấm hình người “cha” với vẻ mãn nguyện và đầy lòng kính trọng thực sự tôi thấy mình là người hạnh phúc chả kém gì anh, chỉ ngần ấy thôi là đủ, đó chính là tiền công mà anh đã trả cho tôi rồi, tâm và nghề giới chúng tôi là vậy, thân tặng anh tấm hình và nhân đây cho tôi xin được nhờ anh thắp nén nhang nhân ngày giỗ sắp tới của cụ, chào anh, thôi anh về đi kẻo nhỡ việc nhà nước.
- Ấy chết! Cụ định hối lộ nhà chức trách à? Không được! tôi có thể ngay bây giờ ký lệnh bắt giam cụ vì hành vi trên, cụ phải nhận tiền! nếu không …!!!
Nói đoạn tay công an rút ví để lại trên bàn bố vợ tôi bốn tờ “cần cẩu” màu xanh - số tiền đó bắng 1/3 tháng lương trung úy của hắn rồi hai tay ôm chặt lấy tấm hình tất tả hướng về phía trụ sở công an khu như chỉ sợ bố tôi đổi ý đòi lại.

Có nhiều chuyện, tôi được nghe từ ông, bà, bố, mẹ … có những chuyện của chính tôi liên can tới những nghề ở xứ ta mà tôi đã kể ở trên vì đã quá dài xin khất các bác vào một dịp khác. Kính chào.

“Tếu táo” những ngày “khô hạn” giữa mùa mưa SG - 2008

Đào Duy

3 nhận xét:

Nặc danh nói...

"bốn tờ cần cẩu" ngày ấy ta có dùng từ này không nhỉ ?

ĐN.K7 nói...

Ngày xưa có nghề "bật bông" bây giờ chắc mất hẳn.

AK7 nói...

Từ "Máy cày",chắc vậy?Nhưng 1/3 cớ lương tháng của tay 2*,1- thì lại nhiều quá?